Vào tháng 5 năm 2013, Bernanke đã thực hiện một thí nghiệm nguy hiểm, trong đó ông cố gắng kiểm tra và đánh giá phản ứng của thị trường toàn cầu trước việc Cục Dự trữ Liên bang rút khỏi QE bằng cách... phao tin, kết quả đã gây ra thảm họa là lãi suất gia tăng đột biến! Lợi tức trái phiếu gần như vượt quá tầm kiểm soát, giá trị trái phiếu bị thu hẹp mạnh, chỉ số chứng khoán giảm sốc, áp lực lên thị trường mua lại tăng nhanh, nguồn tiền bóng tối thiếu hụt cực độ, các thị trường mới nổi rơi vào cảnh máu chảy thành sông.
Bernanke cuối cùng cũng hiểu rằng, việc chấm dứt QE nguy hiểm hơn nhiều so với những gì ông nghĩ trước đây và Cục Dự trữ Liên bang còn lâu mới sẵn sàng đối phó với những hậu quả nghiêm trọng của việc lãi suất tăng vọt. Vì vậy, ông đã phải rút lại lời của mình trong cuộc họp tháng 9 của Cục Dự trữ Liên bang và cắn răng cắn lợi tiếp tục thực thi chính sách QE.
![]() |
Lãi suất ảnh hưởng tới mọi chỉ số tài chính. Ảnh: India Today. |
Lợi ích lớn nhất của QE là tạo ra một môi trường tài chính với lãi suất cực thấp, và việc tái lạm phát tài sản trong năm năm đã giúp cho hệ thống ngân hàng thu được lợi nhuận cực lớn. Tuy nhiên, cái gì cũng có mặt lợi và mặt hại, hậu quả của việc kìm nén lãi suất một cách giả tạo là sau khi lãi suất được giải phóng, nó đã bật cao chót vót, bị kìm nén càng chặt thì sau đó sức bật và sức phá hoại của nó càng lớn.
Về tác động kinh tế, mặt bằng lãi suất tổng thể bị bóp méo ít nhất 800 điểm cơ bản so với bình thường, bao gồm ít nhất 400 điểm cơ bản do tác động từ chính sách “lãi suất cơ bản về không”, 400 điểm cơ bản còn lại được đóng góp bởi quy mô mua trái phiếu trị giá 3 nghìn tỷ đô-la. Từ tháng 5 đến tháng 9, lợi suất trái phiếu kho bạc kỳ hạn mười năm chỉ tăng trở lại 100 điểm cơ bản mà đã khiến cho thị trường tài chính toàn cầu ầm ầm rung chuyển. Việc lãi suất tăng vọt gấp tám lần con số đó sẽ mang lại hậu quả gì?
Bernanke biết rằng hậu quả của việc tiếp tục triển khai QE là cuối cùng sẽ đâm sầm vào tảng băng chìm “mua lại”, vì vậy ông không còn lựa chọn nào khác. Trước sau gì họ cũng phải thoát ra khỏi QE, càng sớm càng tốt.
Nếu tiến hành diễn tập trên sa bàn để mô phỏng việc thoát ra khỏi QE, Cục Dự trữ Liên bang sẽ buộc phải chịu đựng các đợt xung kích của ba đợt bùng nổ lãi suất. Làn sóng đầu tiên sẽ bắt đầu từ sự tăng vọt lãi suất dài hạn do Cục Dự trữ Liên bang giảm mua trái phiếu kho bạc dài hạn và trái phiếu MBS.
Khi lợi suất thực của trái phiếu Chính phủ là âm hoặc ở mức dương không đáng kể, lý do chính khiến trái phiếu Chính phủ được coi là nơi trú ẩn an toàn là các nhà đầu tư đang đặt cược rằng giá trái phiếu Chính phủ sẽ tăng vô thời hạn và Cục Dự trữ Liên bang - với tư cách là người mua lớn nhất trên thị trường - trên thực tế đã tạo ra một “đáy kim cương” cho giá trái phiếu kho bạc.
Việc Cục Dự trữ Liên bang giảm quy mô mua trái phiếu sẽ đồng nghĩa với việc “đáy kim cương” không còn nữa, do đó, các nhà đầu tư chắc chắn sẽ yêu cầu lợi suất cao hơn để bù đắp rủi ro mà họ gánh chịu, đồng thời lãi suất dài hạn sẽ tăng đáng kể.
Phản ứng thị trường này sẽ được nhiều nhà đầu tư hiểu là xu hướng chung của việc tăng lãi suất, do đó, đa số các nhà đầu tư sẽ buộc phải đối phó trước với những thay đổi trong tương lai. Tại thời điểm này, ngay cả khi Cục Dự trữ Liên bang giữ nguyên lãi suất chuẩn ở mức 0, việc tăng lợi suất trái phiếu dài hạn cũng sẽ dần vượt khỏi tầm kiểm soát, điều này sẽ kích thích nhiều nhà đầu tư tham gia đội quân bán tháo và bán khống.
Khi mặt bằng lãi suất trái phiếu dài hạn vượt ra ngoài tầm kiểm soát, lợi suất trái phiếu trung và ngắn hạn cũng sẽ bị ảnh hưởng bởi tâm lý thị trường, tuy mức độ tương đối nhẹ nhưng thị trường trái phiếu không tránh khỏi sự hoảng loạn về lãi suất. Do đó, các quỹ phòng hộ, quỹ tiền tệ, quỹ hưu trí và công ty bảo hiểm nắm giữ tài sản trái phiếu sẽ phải đối mặt với áp lực tổn thất tài sản nặng nề do giá trái phiếu giảm.
Các quỹ phòng hộ hoạt động với đòn bẩy cao sẽ rơi vào trạng thái cực kỳ hoang mang vì lượng vốn của họ gần như hoàn toàn dựa vào các tài sản thế chấp mua lại, vậy mà chỉ trong chớp mắt, giá trị của các tài sản thế chấp này đã thu hẹp đáng kể, và các nhà tạo lập thị trường hoặc nhà giao dịch bắt đầu liên tục gọi điện đến các nhà quản lý quỹ phòng hộ để đòi tiền ký quỹ hoặc đòi thêm nhiều tài sản thế chấp hơn.
Các quỹ phòng hộ bị dồn vào chân tường, buộc phải bán tháo các tài sản đầy rủi ro mà họ đang nắm giữ để có tiền giải quyết cơn nguy trước mắt. Khi một tình huống như vậy xảy ra một cách phổ biến, thị trường tài chính sẽ ngay lập tức rơi vào tình trạng “thiếu tiền”.
Khi một số quỹ phòng hộ sử dụng đòn bẩy cao nhất tuyên bố rằng chuỗi vốn của họ đã bị phá vỡ, cơn ám ảnh tột độ đối với việc phòng ngừa rủi ro sẽ tràn lan khắp thị trường. Chuỗi thế chấp mua lại đã bị kéo ra quá dài giờ chứa đầy cạm bẫy và chỗ nào cũng có thể bị đứt gãy. London sẽ trở thành trung tâm của sự hỗn loạn, còn Đức, Mỹ, Hồng Kông, Singapore, Nam Mỹ và tất cả những nơi bị xâu chuỗi với nhau bởi chuỗi thế chấp mua lại cũng sẽ mất ăn mất ngủ.
Đây chỉ là đợt sóng xung kích đầu tiên, bắt đầu với việc lãi suất dài hạn tăng vọt. Làn sóng xung kích thứ hai sẽ được kích hoạt từ việc lãi suất ngắn hạn tăng đột biến. Cục Dự trữ Liên bang, Ngân hàng Trung ương Anh, Ngân hàng Trung ương Châu Âu và Ngân hàng Trung ương Nhật Bản chưa và cũng không dám nhanh chóng tăng lãi suất ngắn hạn, nhưng lãi suất Libor (do nằm ngoài tầm kiểm soát của Ngân hàng Trung ương) sẽ xảy ra “phản xạ giật gối”.