Bộ Tài chính cụ thể hóa điều kiện chào bán trái phiếu doanh nghiệp

20/12/2025 20:30

Nếu doanh nghiệp phát hành trái phiếu là công ty mẹ, chỉ tiêu nợ phải trả (bao gồm giá trị trái phiếu dự kiến phát hành) và vốn chủ sở hữu được xác định trên báo cáo tài chính hợp nhất, trong đó vốn chủ sở hữu không bao gồm lợi ích của cổ đông không kiểm soát.

Bộ Tài chính công bố dự thảo Nghị định quy định về chào bán, giao dịch trái phiếu doanh nghiệp (TPDN) riêng lẻ tại thị trường trong nước và chào bán trái phiếu doanh nghiệp ra thị trường quốc tế.

Nghị định này sẽ thay thế cho các Nghị định: Nghị định số 153/2020/NĐ-CP ngày 31/12/2020 của Chính phủ quy định về chào bán, giao dịch trái phiếu doanh nghiệp, được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 65/2022/NĐ-CP và Nghị định số 08/2023/NĐ-CP (sau đây gọi tắt là Nghị định số 153/2020/NĐ-CP).

Tăng cường trách nhiệm của tổ chức phát hành

Về nguyên tắc, phương án phát hành và mục đích sử dụng vốn, dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung một số quy định làm rõ hơn trách nhiệm của tổ chức phát hành.

Theo đó doanh nghiệp ngoài việc phải tuân thủ theo nguyên tắc tự vay, tự trả, tự chịu trách nhiệm về hiệu quả sử dụng vốn và đảm bảo khả năng trả nợ thì còn phải đảm bảo nguyên tắc doanh nghiệp phát hành phải chịu trách nhiệm đối với mọi tranh chấp, khiếu nại liên quan đến việc phát hành, sử dụng vốn, trả nợ gốc, lãi trái phiếu.

Khi xác định mục đích phát hành, doanh nghiệp cần nêu chi tiết các thông tin về dự án đầu tư; khoản nợ được cơ cấu; chi tiết kế hoạch sử dụng nguồn vốn và phương thức thanh toán lãi, gốc trái phiếu; giá trị phát hành đối với từng đợt chào bán cần căn cứ vào mục đích, nhu cầu sử dụng vốn của doanh nghiệp, phù hợp với quy định pháp luật.

Bên cạnh đó, dự thảo quy định rõ trường hợp chưa đến thời điểm giải ngân theo tiến độ, doanh nghiệp chỉ được sử dụng vốn thu được từ đợt chào bán trong thời gian tạm thời nhàn rỗi để gửi tiền có kỳ hạn hoặc mua chứng chỉ tiền gửi tại ngân hàng thương mại hoặc chi nhánh ngân hàng nước ngoài;

Khi đến thời điểm giải ngân theo tiến độ, doanh nghiệp phải đảm bảo sử dụng vốn đúng mục đích phát hành tại phương án phát hành và nội dung công bố thông tin cho NĐT. Quy định này nhằm đảm bảo nguồn tiền thu được từ đợt chào bán được sử dụng đúng mục đích, hạn chế rủi ro cho NĐT.

Bộ Tài chính cụ thể hóa điều kiện chào bán trái phiếu doanh nghiệp- Ảnh 1.

Đáng chú ý, dự thảo bổ sung quy định cho phép doanh nghiệp được thay đổi mục đích sử dụng vốn thu được từ đợt chào bán trong trường hợp được cấp có thẩm quyền của doanh nghiệp phát hành thông qua và được số người sở hữu trái phiếu đại diện từ 65% tổng số trái phiếu cùng loại đang lưu hành trở lên chấp thuận.

Doanh nghiệp chỉ được thay đổi khi đã hoàn thành việc mua lại trái phiếu trước hạn đối với những người sở hữu trái phiếu (NSHTP) không chấp thuận việc thay đổi. Quy định này vừa tối ưu hoá dòng tiền cho doanh nghiệp khi có các sự kiện phát sinh dẫn đến không sử dụng vốn theo phương án ban đầu trong hồ sơ chào bán trái phiếu; vừa đảm bảo quyền lợi của trái chủ.

Cụ thể hóa điều kiện chào bán trái phiếu doanh nghiệp

Về điều kiện, hồ sơ chào bán TPDN riêng lẻ tại thị trường trong nước, dự thảo nghị định phân định rõ 02 nhóm đối tượng phát hành, gồm công ty đại chúng, công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán theo quy định của Luật Chứng khoán và công ty không phải là công ty đại chúng, công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán theo quy định của Luật Doanh nghiệp.

Theo đó, điều kiện chào bán đối với doanh nghiệp không phải là công ty đại chúng, công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ hiện hành theo Luật Doanh nghiệp gồm: Nợ phải trả (bao gồm giá trị trái phiếu dự kiến phát hành) không vượt quá 05 lần vốn chủ sở hữu, trừ các trường hợp doanh nghiệp nhà nước; doanh nghiệp phát hành trái phiếu để thực hiện dự án bất động sản; tổ chức tín dụng; doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp tái bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm; công ty chứng khoán; công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán thực hiện theo quy định của pháp luật có liên quan.

Dự thảo Nghị định đã bổ sung và cụ thể hóa điều kiện này đối với trường hợp doanh nghiệp phát hành là công ty mẹ thì chỉ tiêu nợ phải trả (bao gồm giá trị trái phiếu dự kiến phát hành) và vốn chủ sở hữu được xác định trên cơ sở báo cáo tài chính hợp nhất, trong đó vốn chủ sở hữu không bao gồm lợi ích của cổ đông không kiểm soát.

Đối với điều kiện chào bán của công ty đại chúng, công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ, doanh nghiệp phải bảo đảm khoảng cách giữa các đợt chào bán riêng lẻ tối thiểu là 06 tháng kể từ ngày kết thúc đợt chào bán, phát hành riêng lẻ gần nhất; tuân thủ điều kiện về hạn chế chuyển nhượng, đáp ứng quy định về tỷ lệ sở hữu nước ngoài tại công ty đại chúng, công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ đối với trái phiếu chuyển đổi, trái phiếu kèm chứng quyền.

Đối với điều kiện thanh toán đủ gốc, lãi đến hạn thanh toán, hoặc thanh toán đủ các khoản nợ đến hạn trong 03 năm liên tiếp trước đợt chào bán, dự thảo đề xuất quy định doanh nghiệp phải có tài liệu thuyết minh, đánh giá và cam kết về việc đáp ứng thay vì chỉ yêu cầu tài liệu là bản cam kết của doanh nghiệp như hiện nay.

Điều chỉnh quy định về công bố thông tin

Về trình tự thủ tục chào bán TPDN riêng lẻ, dự thảo Nghị định quy định cụ thể về trình tự, thủ tục chào bán TPDN riêng lẻ; làm rõ trách nhiệm của doanh nghiệp phát hành trong việc cung cấp đầy đủ hồ sơ chào bán cho nhà đầu tư (NĐT) theo quy định, thay vì chỉ cung cấp Bản công bố thông tin trước đợt chào bán hoặc cung cấp hồ sơ khi NĐT có yêu cầu; NĐT ký văn bản xác nhận việc thực hiện các trách nhiệm của NĐT theo quy định.

Theo đó, dự thảo bổ sung yêu cầu doanh nghiệp phải gửi thông báo việc chào bán trái phiếu và kết quả chào bán phải đồng thời cho Sở giao dịch chứng khoản (SGDCK) và Sở Tài chính nơi doanh nghiệp đăng ký kinh doanh (đối với công ty không phải là công ty đại chúng, công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ) hoặc Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN) (đối với công ty đại chúng, công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ).

Việc bổ sung quy định doanh nghiệp gửi Sở Tài chính để phù hợp với quy định về phân cấp, phân quyền theo quy định tại Luật Doanh nghiệp và để Sở Tài chính theo dõi, tổng hợp tình hình phát hành TPDN riêng lẻ trong phạm vi địa phương, báo cáo định kỳ và theo yêu cầu của UBND cấp tỉnh, Bộ Tài chính, cũng như cập nhật vào hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu về TPDN riêng lẻ trong phạm vi địa phương, xử lý các hành vi vi phạm về chào bán TPDN riêng lẻ theo thẩm quyền và theo quy định tại Nghị định này.

Trường hợp doanh nghiệp phát hành là tổ chức tín dụng, doanh nghiệp phải gửi thông báo về việc chào bán trái phiếu và kết quả chào bán đồng thời cho SGDCK và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.

Dự thảo cũng quy định rõ đối với trường hợp chào bán trái phiếu chuyển đổi, trái phiếu kèm theo chứng quyền riêng lẻ hoặc chào bán trái phiếu ra thị trường quốc tế của công ty đại chúng, tổ chức kinh doanh chứng khoán, doanh nghiệp gửi hồ sơ đến UBCKNN theo cơ chế đăng ký (mà không phải cơ chế chấp thuận) như thực tiễn đang xử lý hiện nay. Theo đó UBCKNN xem xét và có ý kiến về tính đầy đủ và hợp lệ của hồ sơ.

Về công bố thông tin của doanh nghiệp phát hành TPDN, dự thảo Nghị định quy định theo hướng doanh nghiệp công bố báo cáo sử dụng vốn, số tiền thu được từ đợt chào bán cho đến khi giải ngân hết số tiền thu được hoặc cho đến khi doanh nghiệp không còn dư nợ trái phiếu tùy theo thời điểm nào đến trước để giảm bớt thủ tục và chi phí cho doanh nghiệp.

Quy định hiện nay yêu cầu doanh nghiệp phải kiểm toán và công bố báo cáo định kỳ 6 tháng, hàng năm về tình hình sử dụng số tiền thu được từ phát hành đối với trái phiếu còn dư nợ. Trong quá trình thực hiện, một số tổ chức phát hành và công ty kiểm toán cho rằng việc xây dựng riêng báo cáo sử dụng vốn và kiểm toán báo cáo này sau khi đã giải ngân hết toàn bộ tiền huy động từ trái phiếu là không thực sự cần thiết, tăng chi phí cho doanh nghiệp; đồng thời có thể yêu cầu thuyết minh trong báo cáo tài chính hàng năm để giảm thủ tục cho doanh nghiệp.

Ngoài ra, dự thảo Nghị định quy định doanh nghiệp phát hành phải định kỳ công bố thông tin Báo cáo tài chính năm được kiểm toán, BCTC bán niên được soát xét (thay vì có thể công bố Báo cáo tài chính được Đại hội đồng cổ đông hoặc Hội đồng quản trị hoặc Hội đồng thành viên, Chủ tịch công ty xác nhận số liệu như hiện hành); bổ sung một số trường hợp doanh nghiệp phải công bố thông tin bất thường cho đến khi còn dư nợ trái phiếu.

Về thời hạn gửi nội dung công bố thông tin về kết quả chào bán trái phiếu cho các NĐT và SGDCK, dự thảo chỉnh lý thời hạn từ 05 ngày làm việc thành 10 ngày.

Bạn đang đọc bài viết "Bộ Tài chính cụ thể hóa điều kiện chào bán trái phiếu doanh nghiệp" tại chuyên mục CHỨNG KHOÁN. Mọi thông tin phản hồi, góp ý xin gửi về địa chỉ email: chuyendongthitruong.vn@gmail.com; phutrachnoidung@gmail.com hoặc liên hệ hotline: 0903 78 12 09.